
LỜI TÒA SOẠN: Tám mươi năm đã trôi qua, nhưng hào khí của cuộc Cách mạng Tháng Tám – sức mạnh đoàn kết, bản lĩnh trí tuệ và ý chí tự cường của dân tộc - vẫn còn vẹn nguyên giá trị. Tinh thần ấy không chỉ là di sản được lưu trữ trên những trang sách lịch sử hay các cuốn phim tư liệu, mà đang cộng hưởng mạnh mẽ, tiếp sức cho một cuộc cách mạng mới của dân tộc: Cuộc cách mạng đưa đất nước bước vào "kỷ nguyên vươn mình", hiện thực hóa khát vọng về một Việt Nam hùng cường thịnh vượng.
Từ hình ảnh những người công nhân và nông dân gầy gò, tay cầm cờ đỏ sao vàng bước đi trong đêm tối, đến những kỹ sư trẻ tại các trung tâm AI tiên tiến. Từ hũ gạo cứu đói năm 1945 đến những trung tâm tài chính, trung tâm bán dẫn công nghệ cao ở thời điểm hiện tại. Từ những khối vàng ròng do các nhà tư sản yêu nước hiến tặng chính quyền cách mạng non trẻ đến nền kinh tế đa thành phần, nơi kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng nhất. Từ những chính sách lập pháp và ngoại giao với định hướng kháng chiến, kiến quốc năm xưa tới quan điểm đổi mới lập pháp – khơi thông thể chế, tự lực tự cường, chủ động hội nhập quốc tế theo cách của một quốc gia có trách nhiệm… Hành trình ấy đang được tiếp sức bởi “bộ tứ trụ cột” - bốn Nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị ban hành trong thời gian gần đây - là minh chứng cho sức sống mãnh liệt của dân tộc trước những bước chuyển mang tính thời đại.
Đài Hà Nội trân trọng giới thiệu chùm bài viết "Tiếng vọng Tháng Tám" - một cuộc đối thoại xuyên thế kỷ, soi chiếu ba giá trị bất biến của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945 vào những quyết sách chiến lược đang định hình tầm vóc Việt Nam hôm nay và ngày mai. Loạt bài được phát sóng trên FM96 và thể hiện dưới hình thức emagazine trên HÀNỘI ON.
- Bài 1: Sức mạnh đoàn kết - Từ "triệu người như một" đến "cả dân tộc cùng hành quân"
- Bài 2: Bản lĩnh trí tuệ - Từ "chớp thời cơ vàng" đến "kiến tạo tương lai"
- Bài 3: Ý chí tự cường - Cuộc cách mạng "đem sức ta" viết tiếp bản hùng ca
Đây là hành trình khám phá sự vận động của ba giá trị bất biến được tổng kết từ thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám; từ đó tìm ra đáp án cho câu hỏi lớn của thời đại: Làm thế nào để Việt Nam không chỉ đứng vững mà còn vươn mình trong một thế giới đầy biến động, nơi cạnh tranh công nghệ, các thách thức an ninh phi truyền thống và những dịch chuyển địa chính trị đang định hình lại trật tự toàn cầu?

Nếu sức mạnh đoàn kết là ngọn lửa thắp lên ý chí độc lập và khát vọng vươn tới kỷ nguyên hùng cường thịnh vượng của dân tộc; bản lĩnh trí tuệ là ngọn hải đăng soi đường dẫn lối, thống nhất tư duy và hành động của toàn dân; thì ý chí tự cường chính là nguồn năng lượng nội sinh cho ngọn lửa ấy bùng cháy thành những kỳ tích. Tinh thần không chịu khuất phục, luôn dựa vào sức mình để vượt qua nghịch cảnh, đứng vững và vươn lên đã trở thành một "mã gen" di truyền, một di sản quý báu được trao truyền qua các thế hệ, hun đúc nên bản lĩnh Việt Nam.

Tám mươi năm trước, vào mùa thu năm 1945, tinh thần tự cường của dân tộc được thể hiện súc tích và mạnh mẽ trong lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Lời hiệu triệu ấy không chỉ là khẩu hiệu cho một thời khắc lịch sử, mà là một tuyên ngôn đanh thép, đặt trọn niềm tin cách mạng vào sức mạnh nội sinh của dân tộc. 25 triệu người Việt Nam – từ nông dân, công nhân đến trí thức – đã nhất tề đứng dậy làm nên thành công của cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại. Từ Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ngày 12/3/1945, Đảng ta đã dự đoán chính xác sự suy yếu của Nhật sau sự kiện ngày 9/3, đặt nền móng cho cao trào khởi nghĩa. Hội nghị Tân Trào ngày 16/8/1945, với “Lệnh Tổng khởi nghĩa,” biến dự báo và kế hoạch thành hành động thực tiễn dựa trên nội lực của toàn dân, biến 25 triệu người từ những thân phận nhỏ bé của lịch sử đang bị thực dân đô hộ trở thành những chủ thể tích cực của công cuộc cách mạng “đem sức ta giải phóng cho ta”. Đồng chí Trường Chinh khi đó là phụ trách Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc nhấn mạnh: “Phát động du kích chiếm căn cứ địa, không trông chờ điều kiện khách quan”.

Từ lời hiệu triệu được phát ra tại Tân Trào, mùa thu năm 1945, không khí cách mạng sục sôi trong toàn dân. Dưới lá cờ Việt Minh, cả dân tộc đồng lòng dựa vào sức mạnh nội sinh chủ động nắm bắt thời cơ của lịch sử để tự giải phóng khỏi ách đô hộ của thực dân, phát xít. Ngày 19/8/1945, Hà Nội rung chuyển trước sức mạnh của quần chúng nhân dân theo làn sóng cách mạng. Cuộc mít tinh ở Quảng trường Nhà hát Lớn đã chuyển thành khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên độc lập của dân tộc. Đó là chiến thắng của tinh thần tự cường – một ngọn lửa được thắp lên từ năng lực nội sinh, một bản lĩnh được hun đúc qua nhiều thế kỷ.


Tám mươi năm sau, “mã gen” tự cường ấy vẫn tiếp tục, không phải để đối mặt với súng đạn, mà để giải phóng những nguồn lực nội tại to lớn, kiến tạo nền tảng cho sự phát triển thịnh vượng bền vững của quốc gia với tầm nhìn 100 năm thành lập nước. Nếu năm 1945 là cuộc cách mạng giành độc lập, thì năm 2025 là cuộc cách mạng đưa đất nước vào kỷ nguyên phát triển, giành vị thế trên bản đồ toàn cầu – nơi công nghệ, kinh tế, và hội nhập quốc tế một cách chủ động là vũ khí là vũ khí chiến lược.
Một trong số các sự kiện là minh chứng sống động cho tinh thần tự cường ở thời đương đại của một doanh nghiệp tư nhân Việt Nam vừa diễn ra vào ngày 12/08/2025. Tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc, dưới sự chứng kiến của Tổng Bí thư Tô Lâm và Thủ tướng Hàn Quốc Kim Min Seok, Tập đoàn tư nhân CT Group đã ký kết một bản ghi nhớ lịch sử xuất khẩu 5.000 máy bay không người lái (UAV) vận tải và 100 triệu chip bán dẫn sang Hàn Quốc – một thị trường vốn nổi tiếng với tiêu chuẩn khắt khe. Không chỉ ghi dấu việc lần đầu tiên một doanh nghiệp Việt Nam ký kết một thỏa thuận xuất khẩu sản phẩm thuộc lĩnh vực công nghệ cao không nhiều quốc gia trên thế giới có đủ năng lực thực hiện, sự kiện này còn là hình ảnh biểu tượng cho ý chí tự cường của một doanh nghiệp tư nhân trong kỷ nguyên mới. Theo thông tin từ CT Group, với tỷ lệ nội địa hóa lên đến 85%, các UAV vận tải của tập đoàn này được trang bị công nghệ độc quyền. Đặc biệt, việc tự chủ thiết kế chip bán dẫn cho chính sản phẩm UAV đã tạo ra lợi thế cạnh tranh vượt trội, đưa Việt Nam từ một quốc gia nhập khẩu công nghệ thành nhà xuất khẩu giải pháp.
Cũng theo thông tin từ CT Group, tập đoàn này đã đầu tư xây dựng 3 nhà máy sản xuất tại Bắc Ninh, Đà Nẵng, và Cần Thơ, cùng 2 trung tâm đào tạo nhân lực chất lượng cao tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc (Hà Nội) và Thủ Đức (TP.HCM). Đồng thời, CT Group thành lập các trung tâm chăm sóc khách hàng tại Silicon Valley và Arizona (Hoa Kỳ), khẳng định vị thế toàn cầu.

Câu chuyện của CT Group không phải là một trường hợp cá biệt. Hàng loạt các trung tâm nghiên cứu bán dẫn, AI và công nghệ cao đã được triển khai tại Việt Nam trong thời gian qua. Những trung tâm này không chỉ đào tạo kỹ sư, mà còn là nơi ươm mầm ý tưởng, biến tiềm năng thành sản phẩm thực tế. Ngày 14/8/2025, Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội Viettel và Tập đoàn Quanlcomm đã ký một thỏa thuận hợp tác chiến lược với mục tiêu đưa Việt Nam trở thành trung tâm nghiên cứu và phát triển công nghệ lớn của thế giới. Viettel đã triển khai thành công nhiều sản phẩm viễn thông thuộc các thế hệ công nghệ 3G, 4G, 5G. Trong năm 2022, Viettel đã bắt tay với Qualcomm nghiên cứu sản xuất trạm phát sóng 5G Open RAN. 2 năm sau, Viettel trở thành đơn vị đầu tiên trên thế giới thử nghiệm thành công, sản xuất đại trà và triển khai diện rộng trạm phát sóng này, khẳng định khả năng làm chủ công nghệ hiện đại. Sản phẩm của Viettel đã được xuất khẩu sang nhiều nước trển thế giới, là bước tiến đưa Việt Nam trở thành 1 trong 6 quốc gia trên thế giới có năng lực sản xuất thiết bị mạng 5G. Bên cạnh đó, Viettel cũng đã phát triển thành công 5G AI Camera chuyên dụng cho giao thông thông minh đầu tiên trên thế giới, triển khai trong lĩnh vực giao thông thông minh tại Việt Nam và xuất khẩu ra nước ngoài.
Câu chuyện của VinFast cũng là một minh chứng tiêu biểu cho tiềm năng khổng lồ của sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên mới. Từ một thương hiệu non trẻ, VinFast đã làm nên "kỳ tích" khi không chỉ làm chủ công nghệ xe điện phức tạp mà còn vươn ra chinh phục thị trường toàn cầu, niêm yết thành công trên sàn chứng khoán Mỹ. Thành công của VinFast đã khẳng định rằng Việt Nam hoàn toàn có thể tạo ra những sản phẩm toàn cầu, khơi dậy niềm tự hào và tự tin dân tộc. VinFast, một doanh nghiệp tư nhân trong thời gian qua đã trở thành biểu tượng cho khát vọng "vươn mình" của cả một thế hệ doanh nghiệp Việt.

Đây đều là những sản phẩm nằm trong nhóm 11 công nghệ chiến lược được Chính phủ công bố góp phần hiện thực hóa mục tiêu đưa các ngành kinh tế số đóng góp 30% GDP của Việt Nam vào năm 2030 .
Từ ngọn lửa tự cường 1945, Việt Nam hôm nay đã nâng tầm nội lực thành chiến lược phát triển bền vững, hướng tới mốc 100 năm thành lập nước. Nhưng làm thế nào để hàng triệu doanh nghiệp cùng bứt phá, biến tự cường thành động lực toàn dân?

Sự trỗi dậy của những tập đoàn, doanh nghiệp lớn trong nước, có khả năng tạo ảnh hưởng mang tầm khu vực và quốc tế không phải là một hiện tượng bột phát, mà là biểu hiện rõ nét của một cuộc cách mạng sâu sắc hơn đang diễn ra trong kỷ nguyên đương đại. Ý chí tự cường ngày nay không còn là khẩu hiệu, mà đã được thể chế hóa qua các trụ cột chính sách chiến lược, được “mã hóa” thành những quyết sách chiến lược mang tầm thời đại.
Nghị quyết 57 không chỉ là một chủ trương chung chung, mà là một "kim chỉ nam" hành động, xác định rõ các lĩnh vực công nghệ lõi mà quốc gia cần tập trung như trí tuệ nhân tạo (AI) và công nghiệp bán dẫn. Với tinh thần "cởi trói" thể chế, chấp nhận rủi ro có kiểm soát trong nghiên cứu khoa học, Nghị quyết 57 mở ra không gian cho đổi mới sáng tạo, đồng thời tạo ra một hành lang pháp lý linh hoạt hơn, khuyến khích các doanh nghiệp thử nghiệm và ứng dụng những công nghệ mới, đúng với tinh thần "Make in Vietnam".
Khi Đảng và Nhà nước xác định công nghệ cao là ưu tiên hàng đầu, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp sẽ có đủ sự tự tin để mạnh dạn đầu tư vào những lĩnh vực đòi hỏi vốn lớn và có độ rủi ro cao. Họ biết rằng con đường mình đi không đơn độc, mà song hành cùng chiến lược phát triển của cả dân tộc..
Một sản phẩm công nghệ cao, dù ưu việt đến đâu, cũng sẽ không thể thành công nếu chỉ sử dụng trong nội địa mà không có một thị trường rộng lớn với quy mô khu vực và toàn cầu. Nghị quyết 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế chính là chiếc chìa khóa mở ra cánh cửa thị trường toàn cầu cho các tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam. Nghị quyết 59 đánh dấu một bước ngoặt về tư duy đối ngoại. Như Tổng Bí thư Tô Lâm đã phân tích, đây là sự chuyển dịch từ vị thế "tiếp nhận" sang chủ động "đóng góp" và "dẫn dắt". Việt Nam không còn chỉ là điểm đến của đầu tư, mà còn là một đối tác tin cậy, một quốc gia có trách nhiệm trên trường quốc tế.
Những hợp đồng xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao ra thế giới không chỉ là một giao dịch thương mại, mà còn là kết quả của một quá trình xây dựng lòng tin chiến lược giữa hai quốc gia. Chính sách ngoại giao "cây tre" linh hoạt nhưng kiên định, được thể hiện qua tinh thần của Nghị quyết 59, đã giúp Việt Nam tạo dựng được vị thế và uy tín, làm nền tảng cho những hợp tác chiều sâu trong các lĩnh vực nhạy cảm như công nghệ cao và quốc phòng.
Không chỉ vậy, Nghị quyết 59 là kim chỉ nam để tận dụng các FTA. Với hơn 500 hiệp định thương mại đã ký kết, Nghị quyết 59 định hướng cho các bộ, ngành và doanh nghiệp cách khai thác hiệu quả các cơ hội, đưa các sản phẩm "Made in Vietnam" với hàm lượng công nghệ cao vươn ra thế giới, thay vì chỉ xuất khẩu các mặt hàng thâm dụng lao động như trước đây.
Khi đã có công các sản phẩm công nghệ chủ lực, có tầm ảnh hưởng, có khả năng dẫn dắt trong khu vực và quốc tế; nội lực của một quốc gia vẫn sẽ không thể được giải phóng nếu nó bị kìm kẹp trong một hệ thống thể chế quan liêu, chồng chéo và thiếu minh bạch. Như Tổng Bí thư Tô Lâm đã từng nhấn mạnh, trong ba điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là thể chế, hạ tầng và nhân lực, thì "thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn". Nó chính là nguyên nhân cốt lõi làm chậm tiến độ và giảm hiệu quả của hầu hết các hoạt động phát triển, ngăn cản sự hình thành và phát triển của các nguồn lực nội sinh.
Trong bối cảnh đó, Nghị quyết 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật ra đời như một hành động "dọn đường", một quyết tâm chính trị để khơi thông dòng chảy phát triển, được xác định là "đột phá của đột phá". Nghị quyết yêu cầu một cuộc cách mạng trong tư duy làm luật: chuyển từ "quản lý" sang "phục vụ", từ bị động sang chủ động, kiến tạo; dứt khoát từ bỏ tư duy "không quản được thì cấm".
Đối với ý chí tự cường của các “kỳ lân” tập đoàn, doanh nghiệp trong nước; tinh thần của Nghị quyết 66 mang ý nghĩa sống còn. Nó tạo ra một "sân chơi" công bằng và có thể dự báo được, nơi doanh nghiệp có thể yên tâm đầu tư và đổi mới sáng tạo. Một trong những nỗi lo lớn nhất của doanh nghiệp tư nhân trong nhiều năm là nguy cơ "hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự". Nghị quyết 66 đã trực tiếp giải quyết vấn đề này bằng cách yêu cầu phân định rõ trách nhiệm hình sự với hành chính, dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp. Khi được bảo vệ bởi một hành lang pháp lý vững chắc, doanh nghiệp mới có đủ tự tin để dấn thân, chấp nhận rủi ro và theo đuổi những khát vọng lớn lao, thay vì chỉ tập trung vào các hoạt động kinh doanh an toàn, ngắn hạn.
Nếu Nghị quyết 66 kiến tạo "sân chơi" khơi thông nguồn lực phát triển nội sinh, thì Nghị quyết 68-NQ/TW chính là hành động "cởi trói" và tiếp thêm sức mạnh cho các "người chơi" trên sân chơi đó - hàng triệu doanh nghiệp tư nhân.

Lời khẳng định này đánh dấu một cuộc cách mạng trong nhận thức về kinh tế tư nhân, về chiến lược phát triển đất nước hùng cường trong kỷ nguyên mới. Từ vị trí thứ yếu, kinh tế tư nhân đã trở thành trụ cột phát triển, song hành cùng kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, tạo thành thế “kiềng ba chân” vững chắc cho nền kinh tế độc lập, tự chủ. Nghị quyết không dừng lại ở việc "khuyến khích" chung chung, mà đi thẳng vào việc giải quyết những rào cản cố hữu đã kìm hãm kinh tế tư nhân suốt quãng thời gian qua.
Tinh thần của Nghị quyết 68 đã nhanh chóng lan tỏa, khơi dậy ý chí tự cường trong cộng đồng doanh nghiệp. Thay vì chỉ ngồi chờ đợi chính sách, nhiều doanh nghiệp đã chủ động hành động. Câu chuyện của Tập đoàn Đèo Cả là một ví dụ điển hình. Ngay sau khi Nghị quyết được ban hành, với tinh thần đồng hành cùng đất nước, Đèo Cả đã táo bạo đề xuất nghiên cứu đầu tư mở rộng cao tốc Bắc - Nam phía Đông theo phương thức đối tác công - tư (PPP), chủ động thu xếp tài chính mà không sử dụng vốn ngân sách. Đại diện tập đoàn khẳng định, doanh nghiệp không chỉ đứng đợi tháo gỡ rào cản, mà phải đồng hành ngay từ đầu để góp phần tạo nên thành công của chủ trương lớn.

Nghị quyết 68 yêu cầu phải xóa bỏ mọi rào cản, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân tiếp cận công bằng các nguồn lực phát triển, nhất là vốn, đất đai, công nghệ và nhân lực. Đặc biệt, nghị quyết đề ra chiến lược quốc gia để phát triển các "doanh nghiệp dân tộc tiên phong", những "sếu đầu đàn" có đủ năng lực cạnh tranh quốc tế, dẫn dắt các chuỗi giá trị trong nước. Đây chính là hành động "cởi trói" để giải phóng năng lượng sáng tạo khổng lồ của khu vực tư nhân, biến nó thành động lực quan trọng nhất cho khát vọng hùng cường.
Chính nhờ những định hướng mang tính "mở đường" như vậy, những doanh nghiệp “kỳ lân” nội địa mới có đủ không gian và động lực để thực hiện những dự án tầm cỡ, không chỉ tạo ra sản phẩm cho thị trường trong nước mà còn mang thương hiệu Việt Nam ra thế giới, khẳng định ý chí tự cường của cả một dân tộc trong kỷ nguyên mới.

Từ tinh thần "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta" của Cách mạng Tháng Tám, một thế hệ người Việt Nam hôm nay đang viết tiếp chương mới của ý chí tự cường bằng những quyết sách chiến lược. Cuộc đối thoại xuyên thế kỷ giữa những giá trị bất biến của hai cuộc cách mạng đã cho thấy một sự kế thừa và phát triển những “mã gen” của dân tộc với những yêu cầu của thời đại.
Trong cuộc cách mạng đưa đất nước vào kỷ nguyên mới mà “cả dân tộc cùng hành quân vươn tới tương lai rực rỡ của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân, vì một Việt Nam phát triển bền vững”, tinh thần “đoàn kết” đã được thể chế hóa thành năng lực đồng thuận toàn hệ thống; bản lĩnh “trí tuệ” đã chuyển trạng thái từ chủ động nắm bắt thời cơ với một kế hoạch sáng suốt sang chủ động kiến tạo tương lai, kiến tạo không gian phát triển mới của quốc gia dân tộc; và ý chí “tự cường” đang được hiện thực hóa bằng hàng loạt các kế hoạch hành động giải phóng nội lực quốc gia.
"Bộ tứ trụ cột" chính sách không chỉ là những văn kiện, mà là những công cụ sắc bén để tổng hợp sức mạnh Việt Nam trong kỷ nguyên mới. Trên nền tảng vững chắc của những giá trị bất biến được hun đúc từ lịch sử, với quyết tâm "cởi trói" và giải phóng mọi tiềm năng, mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp Việt Nam hôm nay đều đang mang trong mình sứ mệnh và cơ hội để chung tay viết tiếp những trang sử vàng từ tiếng vọng tháng Tám năm xưa, cùng nhau thắp sáng khát vọng về một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng vào năm 2045.
Bài viết: Hoàng Minh
Thiết kế: Thanh Nga