
LỜI TÒA SOẠN: Tám mươi năm đã trôi qua, nhưng hào khí của cuộc Cách mạng Tháng Tám – sức mạnh đoàn kết, bản lĩnh trí tuệ và ý chí tự cường của dân tộc - vẫn còn vẹn nguyên giá trị. Tinh thần ấy không chỉ là di sản được lưu trữ trên những trang sách lịch sử hay các cuốn phim tư liệu, mà đang cộng hưởng mạnh mẽ, tiếp sức cho một cuộc cách mạng mới của dân tộc: Cuộc cách mạng đưa đất nước bước vào "kỷ nguyên vươn mình", hiện thực hóa khát vọng về một Việt Nam hùng cường thịnh vượng.
Từ hình ảnh những người công nhân và nông dân gầy gò, tay cầm cờ đỏ sao vàng bước đi trong đêm tối, đến những kỹ sư trẻ tại các trung tâm AI tiên tiến. Từ hũ gạo cứu đói năm 1945 đến những trung tâm tài chính, trung tâm bán dẫn công nghệ cao ở thời điểm hiện tại. Từ những khối vàng ròng do các nhà tư sản yêu nước hiến tặng chính quyền cách mạng non trẻ đến nền kinh tế đa thành phần, nơi kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng nhất. Từ những chính sách lập pháp và ngoại giao với định hướng kháng chiến, kiến quốc năm xưa tới quan điểm đổi mới lập pháp – khơi thông thể chế, tự lực tự cường, chủ động hội nhập quốc tế theo cách của một quốc gia có trách nhiệm… Hành trình ấy đang được tiếp sức bởi “bộ tứ trụ cột” - bốn Nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị ban hành trong thời gian gần đây - là minh chứng cho sức sống mãnh liệt của dân tộc trước những bước chuyển mang tính thời đại.
Đài Hà Nội trân trọng giới thiệu chùm bài viết "Tiếng vọng Tháng Tám" - một cuộc đối thoại xuyên thế kỷ, soi chiếu ba giá trị bất biến của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945 vào những quyết sách chiến lược đang định hình tầm vóc Việt Nam hôm nay và ngày mai. Loạt bài được phát sóng trên FM96 và thể hiện dưới hình thức emagazine trên HÀNỘI ON.
- Bài 1: Sức mạnh đoàn kết - Từ "triệu người như một" đến "cả dân tộc cùng hành quân"
- Bài 2: Bản lĩnh trí tuệ - Từ "chớp thời cơ vàng" đến "kiến tạo tương lai"
- Bài 3: Ý chí tự cường - Cuộc cách mạng "đem sức ta" viết tiếp bản hùng ca
Đây là hành trình khám phá sự vận động của ba giá trị bất biến được tổng kết từ thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám; từ đó tìm ra đáp án cho câu hỏi lớn của thời đại: Làm thế nào để Việt Nam không chỉ đứng vững mà còn vươn mình trong một thế giới đầy biến động, nơi cạnh tranh công nghệ, các thách thức an ninh phi truyền thống và những dịch chuyển địa chính trị đang định hình lại trật tự toàn cầu?

Nếu sức mạnh đoàn kết là ngọn lửa thắp lên ý chí độc lập dân tộc, thống nhất tư duy và hành động của toàn dân, thì bản lĩnh trí tuệ chính là ngọn hải đăng soi đường dẫn lối cho ngọn lửa ấy bùng cháy thành những kỳ tích.

Lịch sử Việt Nam là một bản trường ca bất tận về nghệ thuật tự định hình vận mệnh mà mỗi thời đại, bản lĩnh trí tuệ của dân tộc lại có những cách thể hiện khác nhau, từ những quyết sách sáng suốt trong lịch sử đến những đột phá chiến lược dưới ánh sáng của kỷ nguyên mới. Phải chăng thành công của mỗi thời đại là khả năng chọn đúng điểm rơi của quán tính lịch sử hay đó là bản lĩnh được tôi luyện qua gian khó, một trí tuệ và tầm nhìn xa, không chỉ nắm bắt mà còn chủ động kiến tạo những khoảnh khắc định đoạt vận mệnh?
Tám mươi năm trước, câu trả lời đã được viết nên bằng máu và nước mắt của một dân tộc lầm than do những xu hướng cạnh tranh địa chính trị toàn cầu và bối cảnh lịch sử. Giữa tháng 8 năm 1945, khi phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh vô điều kiện, Đông Dương rơi vào một “khoảng trống quyền lực” mong manh. Thực dân Pháp chưa kịp trở lại, còn phát xít Nhật đã rệu rã hàng ngũ. Trong khoảnh khắc lịch sử ấy, bản lĩnh trí tuệ của dân tộc đã bừng sáng.

Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm Ðông Dương. Ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Ðảng tổ chức hội nghị mở rộng ở Ðình Bảng, ra chỉ thị: “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Với chỉ thị này, bản lĩnh trí tuệ của Việt Nam không chỉ là sự ứng biến tài tình, mà còn là kết quả của một quá trình phân tích, dự báo và chuẩn bị công phu của Trung ương Đảng.
Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” là văn kiện chỉ đạo chiến lược đặc biệt quan trọng, thể hiện tầm cao tư duy và bản lĩnh lãnh đạo của Đảng ta trong thời khắc bước ngoặt của lịch sử. Từ văn kiện này, cách mạng Việt Nam đã chuyển từ thế chuẩn bị sang hành động, đặt nền móng cho cao trào khởi nghĩa và đi đến thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám 1945. Phương châm của cách mạng cũng được Tổng Bí thư Trường Chinh xác định rõ trong Chỉ thị: Không được trông chờ vào điều kiện khách quan, mà phải luôn giữ thế chủ động: “Ngay từ bây giờ phát động du kích chiếm căn cứ địa, duy trì và mở rộng chiến tranh du kích là phương pháp duy nhất để chủ động trong việc đánh đuổi quân Nhật ra khỏi đất nước”. Chính tinh thần chủ động, quyết đoán đó đã giúp toàn Đảng, toàn dân luôn trong tâm thế sẵn sàng cho các hành động nắm bắt thời cơ.
Tối 12/8/1945, sau khi nhận tin phát xít Nhật gửi công hàm cho đồng minh chấp nhận các điều kiện đầu hàng theo Tuyên bố Potsdam, Thường vụ Trung ương họp quyết định phát động Tổng khởi nghĩa trên toàn quốc. Ngay sau cuộc họp, "Mệnh lệnh khởi nghĩa" của Ủy ban Chỉ huy lâm thời Khu Giải phóng được phát ra.
Đêm 13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 hiệu triệu toàn dân tiến hành tổng khởi nghĩa. Ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân Trào thông qua "10 chính sách lớn của Việt Minh"; thông qua "Lệnh Tổng khởi nghĩa"; quy định quốc kỳ, quốc ca; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ lâm thời. Ngay sau Đại hội Quốc dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký tên Nguyễn Ái Quốc gửi thư kêu gọi đồng bào gia nhập Việt Minh, ủng hộ Việt Minh và Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam đánh đuổi Nhật - Pháp giành độc lập cho Tổ quốc.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả dân tộc Việt Nam nhất tề đứng dậy. Nhờ có sự chuẩn bị lực lượng chu đáo, lại nổ ra đúng lúc, đúng thời cơ, Cách mạng Tháng Tám đã nhanh chóng giành được thắng lợi. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc - kỷ nguyên độc lập và tự do.
Dưới sự dẫn dắt của Đảng, từ ngọn lửa quyết đoán chiếm lĩnh “khoảng trống quyền lực” năm 1945 tới quyết tâm kiến tạo “không gian phát triển” năm 2025 cho quốc gia dân tộc, Việt Nam hôm nay đã chuyển hóa bản lĩnh trí tuệ dân tộc thành những bước đi chiến lược hướng tới mốc 100 năm thành lập nước.

Tám mươi năm sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, trật tự toàn cầu vốn được định hình trong thời hiện đại đang dần tan rã. Quyền lực trong một thế giới phẳng đang phân mảnh và chuyển sang xu hướng đa cực cùng những xung đột cạnh tranh địa chính trị giữa các nước lớn được đẩy lên cao trào. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn biến nhanh chóng, thay đổi toàn diện mọi mặt đời sống văn hóa xã hội cũng như tiềm lực kinh tế, sức mạnh cứng và sức mạnh mềm của mỗi quốc gia.
Bối cảnh này đặt ra những thách thức mới của thời đại khiến thời cơ và vận hội của mỗi dân tộc trong một trật tự thế giới mới không còn đơn thuần chỉ là những điểm rơi – “món quà tự nhiên” của lịch sử. Nó đòi hỏi mỗi quốc gia phải tự tay định hình nên “không gian phát triển” và xây dựng “năng lực cạnh tranh” từ chính nội lực của mình. Bản lĩnh trí tuệ Việt Nam hôm nay đã chuyển sang một trạng thái mới để chủ động kiến tạo tương lai cho đất nước.
Đó là hình ảnh những kỹ sư trẻ tại các trung tâm bán dẫn, nơi Việt Nam đặt mục tiêu đào tạo 50.000 kỹ sư bán dẫn vào năm 2030, theo chiến lược từng công bố trên Báo Điện tử Chính phủ ngày 10/06/2025. Đó còn là cột mốc lịch sử khi một tập đoàn công nghệ trong nước khánh thành hai nhà máy Trí tuệ Nhân tạo (AI Factory) tại Hà Nội và TP.HCM, được vinh danh trong TOP 500 siêu máy tính mạnh nhất thế giới vào tháng 6/2025 sau khi nghị quyết 57 về về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia cũng như Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân ra đời, đưa Việt Nam lần đầu tiên vào nhóm 15 quốc gia dẫn đầu về công nghệ trí tuệ nhân tạo, theo thông tin từ VietnamPlus ngày 01/08/2025.

Bản lĩnh trí tuệ của dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên số hôm nay là một quá trình tiếp nối giá trị bất biến của bản lĩnh trí tuệ từ cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 với những bước nhảy vọt về chất sau gần một thế kỷ. Đó là hành trình từ tâm thế nắm bắt “thời cơ ngàn năm” sang chủ động kiến tạo “tương lai vàng” – một cuộc chuyển dịch định hình tầm vóc dân tộc hướng tới mốc 100 năm thành lập nước trong cuộc chơi toàn cầu.
Nhưng làm thế nào để trí tuệ ấy tiếp tục dẫn dắt dân tộc vượt qua những thách thức mới, làm nên thành công của một cuộc cách mạng mới? Đáp án của câu hỏi mang tính thời đại này, một lần nữa vẫn nằm ở tiếng vọng của Mùa Thu năm 1945 - một cuộc đối thoại xuyên thế kỷ về bản lĩnh trí tuệ của dân tộc như một giá trị bất biến từ thành công của Cách mạng tháng Tám.

Từ điểm khởi đầu của cuộc Cách mạng đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, nhìn lại những bài học thành công của cuộc Cách mạng tháng Tám mở ra kỷ nguyên độc lập của quốc gia, chúng ta sẽ thấy một hằng số bất biến: Bản lĩnh trí tuệ Việt Nam.
Đó là năng lực phân tích sâu sắc thời cuộc, dự báo chính xác xu thế và đưa ra những quyết sách táo bạo, quyết đoán vào những thời điểm mang tính bước ngoặt, bởi vận hội của một quốc gia dân tộc có thể do thời thế tạo ra, nhưng biến vận hội thành hiện thực là nghệ thuật của trí tuệ và bản lĩnh của quốc gia dân tộc đó. Năm 1945, bản lĩnh ấy đã giúp dân tộc nắm bắt một khoảnh khắc lịch sử mong manh để chủ động giành lại độc lập, tự do. Ngày nay, cũng chính bản lĩnh ấy đang được thể hiện ở một trạng thái mới, không chỉ để ứng phó với thời cuộc, mà chủ động kiến tạo thời cơ, kiến tạo không gian phát triển mới cho quốc gia dựa trên sức mạnh nội tại nhằm định hình tương lai, hiện thực hóa khát vọng về một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng.
Vào giữa năm 1945, bàn cờ địa chính trị thế giới thay đổi với tốc độ vũ bão. Tại châu Âu, phát xít Đức đã đầu hàng vô điều kiện vào tháng 5, kết thúc chiến tranh tại mặt trận này. Tại châu Á, sự kiện Liên Xô tuyên chiến và tấn công như vũ bão vào đội quân Quan Đông của Nhật ở Mãn Châu, cùng với việc Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki, đã đẩy phát xít Nhật đến bờ vực sụp đổ hoàn toàn. Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng minh vô điều kiện, Chiến tranh thế giới thứ hai chính thức kết thúc.
Sự kiện này đã tạo ra một "khoảng trống quyền lực" vô cùng đặc biệt và hiếm hoi tại Đông Dương. Chính quyền thực dân Pháp đã bị Nhật đảo chính lật đổ từ ngày 9/3/1945. Giờ đây, chính quyền phát xít Nhật cùng bộ máy tay sai cũng bắt đầu tan rã. Trong khi đó, các lực lượng Đồng minh được giao nhiệm vụ giải giáp quân Nhật – quân đội Tưởng Giới Thạch ở phía Bắc và quân đội Anh ở phía Nam – vẫn chưa kịp tiến vào Việt Nam.
Đây chính là "thời cơ vàng", một khoảnh khắc lịch sử mà kẻ thù cũ đã gục ngã còn kẻ thù mới chưa kịp đến.
23 ngày 13/8/1945, "Quân lệnh số 1" của Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc được phát đi. Nhưng do nước lụt, điều kiện giao thông khó khăn, Mệnh lệnh Tổng khởi nghĩa chưa về kịp tới Hà Nội. Đảng bộ Hà Nội, lúc đó chỉ có mấy chục đảng viên, đứng trước một quyết định vô cùng lớn lao: Tổng khởi nghĩa mà chưa có lệnh của Trung ương, hay bỏ lỡ thời cơ có một không hai trong lịch sử?
Ngay trong đêm 15/8/1945, tại chùa Hà, Bí thư Thành ủy Hà Nội Nguyễn Quyết đã triệu tập hội nghị mở rộng đề ra một quyết định lịch sử: Hà Nội sẽ tiến hành khởi nghĩa bằng lực lượng tại chỗ với nòng cốt là quần chúng cách mạng, không chờ quân giải phóng từ chiến khu Việt Bắc về. Chờ là sẽ mất thời cơ!
Đây là một quyết định đúng đắn đầy tự tin, chủ động, sáng tạo nhưng cũng rất độc đáo với phương thức phù hợp, sát với tình hình thực tế của Hà Nội. Nó đòi hỏi sự táo bạo, quyết đoán vì xảy ra ở một vị trí chiến lược trong khi chưa nhận được lệnh của Trung ương. Bí thư Nguyễn Quyết và Thành ủy Hà Nội đã không thụ động chờ đợi, không ỷ lại, mà dám làm, dám chịu trách nhiệm trước nhân dân, trước Đảng trong tình thế cấp bách ở một thời cơ có một không hai trong lịch sử. Hà Nội, ngọn cờ đầu đóng vai trò quyết định tạo nên thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vào ngày 2/9/1945, đưa Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nhìn ra thế giới, bối cảnh đó càng cho thấy nét đặc sắc của bản lĩnh trí tuệ Việt Nam trong việc nắm bắt thời cơ để kiến tạo một kỷ nguyên độc lập. Nhiều phong trào giải phóng dân tộc khác trên thế giới hoặc thất bại do thiếu sự chuẩn bị và đường lối đúng đắn, hoặc phải bước vào một cuộc đấu tranh trường kỳ mới sau khi chiến tranh kết thúc do các thế lực đế quốc cũ nhanh chóng quay trở lại tái lập ách thống trị. Thắng lợi nhanh chóng và gần như trọn vẹn của Việt Nam là minh chứng cho khả năng nắm bắt và tận dụng một cách xuất sắc cơ hội lịch sử.
Vận hội của dân tộc này là một cánh cửa hẹp, một cuộc chạy đua với tư duy và hành động quyết đoán. Mối đe dọa tới sự thành công của Cách mạng tháng Tám không chỉ đến từ tàn quân Nhật đang chờ giải giáp, mà còn từ chính các lực lượng Đồng minh sắp tiến vào, với những toan tính địa chính trị riêng. Quân đội Tưởng Giới Thạch ở phía Bắc mang dã tâm diệt cộng, phá Việt Minh, trong khi quân Anh ở phía Nam lại công khai ủng hộ Pháp quay trở lại Đông Dương. Do đó, thời cơ chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian cực ngắn, từ sau khi Nhật đầu hàng đến trước khi quân Đồng minh thiết lập được bộ máy ủy nhiệm mới. Bất kỳ sự chậm trễ nào cũng đồng nghĩa với việc cách mạng sẽ phải đối mặt trực diện với những thế lực ngoại xâm mới, hùng mạnh hơn, và cuộc đấu tranh giành độc lập sẽ trở nên gian khổ, đẫm máu hơn gấp bội. Bản lĩnh của cách mạng Việt Nam không chỉ nằm ở việc nhận ra thời cơ, mà còn ở việc thấu hiểu sự mong manh và cấp bách của nó để hành động với một sự quyết đoán phi thường – sự lựa chọn của lịch sử đặt trách nhiệm lên vai Ban Thường vụ Trung ương Ðảng.

Bản lĩnh đó được xây dựng trên nền tảng của một tầm nhìn chiến lược và sự chuẩn bị công phu, mà đỉnh cao là Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" do Ban Thường vụ Trung ương Đảng ban hành ngày 12 tháng 3 năm 1945. Văn kiện lịch sử này ra đời ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp, thể hiện khả năng phân tích và dự báo sát tình hình.
Từ rất sớm, Đảng ta đã nhận định mâu thuẫn quyền lợi giữa Pháp và Nhật ở Đông Dương là không thể dung hòa và một cuộc đối đầu giữa chúng là tất yếu. Khi sự kiện đó xảy ra, Chỉ thị đã ngay lập tức đưa ra những quyết sách mang tính bước ngoặt:
Xác định kẻ thù chính: Chỉ thị nêu rõ: kẻ thù chính, cụ thể, trước mắt của nhân dân Đông Dương lúc này là phát xít Nhật. Từ đó, khẩu hiệu "Đánh đuổi Pháp - Nhật" được thay bằng "Đánh đuổi phát xít Nhật".
Phát động cao trào cách mạng: Chỉ thị quyết định phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ, làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Đây được xem là một cuộc "tập dượt" quan trọng, huy động và rèn luyện quần chúng, chuẩn bị sẵn sàng cho thời cơ quyết định.
Nhìn sâu hơn, Chỉ thị này là một đỉnh cao về nghệ thuật vận động chính trị của Đảng thông qua việc đơn giản hóa chiến lược. Trước ngày 9/3, cục diện chính trị phức tạp với hai kẻ thù có thể làm phân tán lực lượng và gây hoang mang trong quần chúng. Bằng việc xác định dứt khoát phát xít Nhật là kẻ thù duy nhất và trước mắt, Đảng đã làm cho mục tiêu của cách mạng trở nên rõ ràng, sáng tỏ hơn bao giờ hết. Sự đơn giản hóa chiến lược này đã tạo ra một sức mạnh đoàn kết toàn dân, quy tụ mọi lực lượng yêu nước, không phân biệt chính kiến, dưới ngọn cờ chung của Việt Minh. Nó đã biến cuộc đấu tranh của dân tộc từ một cuộc chiến chống thực dân phức tạp thành một cuộc chiến chống phát xít chính nghĩa, hoàn toàn phù hợp với xu thế của thời đại và lập trường của phe Đồng minh, qua đó tạo ra một cú hích chính trị cực lớn cho toàn bộ phong trào.
Khi phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng vào ngày 15/ 8, thời cơ chín muồi đã đến. Ngay lập tức, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) đã đi đến quyết định lịch sử: phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước, giành lấy chính quyền trước khi quân Đồng minh vào. Tốc độ ra quyết định gần như tức thời này cho thấy sự chuẩn bị kỹ lưỡng và một bản lĩnh chính trị phi thường.
Tiếp đó, Đại hội Quốc dân được triệu tập cũng tại Tân Trào vào ngày 16 và 17 tháng 8, với sự tham gia của hơn 60 đại biểu đại diện cho cả ba miền và các tầng lớp nhân dân, đã nhất trí tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa và cử ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, đóng vai trò như một Chính phủ lâm thời. Trong giờ phút lịch sử ấy, lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ký tên Nguyễn Ái Quốc vang lên như tiếng kèn xung trận: "Hỡi đồng bào yêu quý! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta".
Lời hiệu triệu ấy đã khơi dậy sức mạnh của toàn dân tộc, tạo nên một làn sóng cách mạng rộng khắp trên khắp cả nước.

Hành động triệu tập Đại hội Quốc dân không chỉ là một bước đi chính trị thông thường, mà còn là một nước cờ chiến lược, tạo ra một "khung khổ pháp lý" bảo vệ thành quả cách mạng. Một cuộc nổi dậy thành công không chỉ cần sức mạnh quân sự mà còn đòi hỏi tính chính danh. Nếu không có sự công nhận chính trị, cuộc Tổng khởi nghĩa có thể bị các lực lượng Đồng minh khi tiến vào xem như một cuộc nổi loạn vô chính phủ. Bằng việc thành lập một cơ quan đại diện cho ý chí toàn dân, có tính pháp lý như Chính phủ lâm thời, trước khi cuộc khởi nghĩa kết thúc, cách mạng Việt Nam đã tự tạo cho mình một vị thế chính trị vững chắc. Khi quân Đồng minh đến, họ không đối mặt với một khoảng trống quyền lực để tự do định đoạt, mà phải đối diện với một chính quyền đã thành hình, đại diện cho chủ quyền của một quốc gia độc lập.
Sự chuẩn bị kỹ lưỡng này đã làm thay đổi hoàn toàn cục diện ngoại giao, khiến cho mọi âm mưu tái lập chế độ thuộc địa của ngoại bang trở nên khó khăn hơn rất nhiều. Đó là một chiến thắng chính trị được tạo nên bởi tầm nhìn và sự quyết đoán từ bản lĩnh trí tuệ của dân tộc.

Tám mươi năm sau, tiếng vọng của mùa thu lịch sử năm 1945 vẫn còn vang dội. Bản lĩnh trí tuệ của dân tộc tại bước ngoặt quan trọng của lịch sử một lần nữa được thể hiện, nhưng trong một bối cảnh hoàn toàn mới và với một tâm thế khác biệt. Nếu năm 1945 bản lĩnh trí tuệ dân tộc thể hiện ở nghệ thuật chủ động nắm bắt thời cơ nhằm kiến tạo một kỷ nguyên độc lập, thì ngày nay là là chủ động kiến tạo vận hội, định hình tương lai quốc gia dân tộc từ chính sức mạnh nội sinh.
Thế giới đương đại đang trong giai đoạn biến động mạnh mẽ nhất kể từ sau cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ nhất (thế kỷ XVIII-XIX). Cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc, xung đột địa chính trị được đẩy lên cao trào, sự phân rã của trật tự thế giới cũ, và xu hướng tái cấu trúc chuỗi cung ứng – thương mại toàn cầu đang tạo ra một môi trường đầy thách thức nhưng cũng ẩn chứa những cơ hội lớn cho các quốc gia có tầm nhìn chiến lược.
Quan trọng hơn, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với những đột phá về trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn, và công nghiệp bán dẫn đang làm thay đổi hoàn toàn lực lượng sản xuất cũng như các phương thức sản xuất cũ, đang định hình lại các động lực tăng trưởng kinh tế và sức mạnh quốc gia. Ảnh hưởng này có thể khiến một nền kinh tế với thực lực lớn mạnh trở nên cồng kềnh, phát triển chậm chạp, nhưng cũng có thể mở ra cơ hội cho các nền kinh tế nhỏ đi sau có thể "nhảy vọt", rút ngắn khoảng cách và xác lập không gian phát triển riêng của mình.
Trong bối cảnh đó, bản lĩnh trí tuệ của Việt Nam đã có một bước chuyển mạnh mẽ, từ nắm bắt thời cơ sang kiến tạo vận hội, kiến tạo không gian phát triển mới dựa trên tinh thần tự lực, tự cường. Thời cơ vàng của hiện tại không còn là một "khoảng trống quyền lực", mà chính là cơ hội để thực hiện một cuộc cách mạng từ bên trong: cải cách thể chế, giải phóng các nguồn lực quốc gia, làm chủ công nghệ và định vị lại vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế.
Những biến động địa chính trị và công nghệ chỉ là bối cảnh, còn cơ hội thực sự nằm ở chính năng lực nội tại và quyết tâm cải cách hoạt động quản trị quốc gia. Bản lĩnh kiến tạo của ngày hôm nay chính là tầm nhìn chiến lược và sự quyết đoán, quyết liệt thực hiện những cuộc cải cách sâu rộng và toàn diện, một thách thức phức tạp của thời đại.
Để hiện thực hóa tư duy kiến tạo đó, Đảng và Nhà nước đã ban hành một hệ thống các quyết sách chiến lược mang tính nền tảng, được ví như "bộ tứ trụ cột" cho kỷ nguyên phát triển mới. Bốn nghị quyết lớn (Nghị quyết 57, 59, 66, và 68) không phải là những chính sách riêng lẻ, mà là một kiến trúc chiến lược tổng thể, có sự liên kết chặt chẽ và tác động cộng hưởng lẫn nhau, nhằm giải phóng toàn bộ tiềm lực quốc gia, tạo sức mạnh và căn cứ pháp lý để thực hiện một cuộc cách mạng mở ra một kỷ nguyên mới của đất nước.


Bốn trụ cột này không tồn tại độc lập riêng rẽ mà tạo thành một chuỗi chính sách liên hoàn, một lộ trình logic để tăng cường sức mạnh quốc gia một cách toàn diện.
Nền tảng (Trụ cột 1 – Nghị quyết 66-NQ/TW): Mọi sự phát triển hiện đại không thể được xây dựng trên một nền tảng thể chế lỗi thời, rườm rà và thiếu minh bạch. Nghị quyết 66 chính là một chính sách nền tảng, được mệnh danh là "đột phá của đột phá", nhằm cải tổ toàn diện "hệ điều hành" pháp lý và hành chính của quốc gia. Bằng cách tháo gỡ "điểm nghẽn của những điểm nghẽn", nghị quyết này tạo ra một môi trường pháp lý kiến tạo, minh bạch và có tính dự báo cao, củng cố niềm tin cho xã hội và thị trường.
Tăng cường nội lực (Trụ cột 2 - Nghị quyết 68-NQ/TW): Khi nền tảng thể chế đã được gia cố, động cơ mạnh mẽ nhất của nền kinh tế trong nước – khu vực kinh tế tư nhân – sẽ được giải phóng. Nghị quyết 68 là một tuyên bố mang tính lịch sử, "cởi trói" cho động lực này bằng cách khẳng định đây là một "động lực quan trọng nhất" và đảm bảo quyền tiếp cận bình đẳng các nguồn lực về vốn, đất đai, công nghệ. Điều này giúp xây dựng một nền kinh tế nội địa vững mạnh và tự chủ.
Sức mạnh đột phá khoa học công nghệ (Trụ cột 3 - Nghị quyết 57-NQ/TW): Một nền kinh tế mạnh phải là một nền kinh tế dựa trên khoa học công nghệ. Nghị quyết 57 là tư duy chiến lược để tăng cường hiệu quả quản trị quốc gia cũng như động cơ kinh tế bằng khoa học công nghệ của thế kỷ 21. Việc tập trung vào các lĩnh vực cốt lõi như bán dẫn và AI cho thấy quyết tâm của Việt Nam không chỉ dừng lại ở việc tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu ở các công đoạn gia công, lắp ráp, mà còn vươn lên làm chủ những công nghệ nền tảng, hiện thực hóa chiến lược "Make in Vietnam".
Vị thế toàn cầu (Trụ cột 4 - Nghị quyết 59-NQ/TW): Với một hệ thống thể chế được cải cách, một động cơ kinh tế rõ ràng nhằm tăng cường nội lực quốc gia, một nền khoa học công nghệ tiên tiến, Việt Nam có đủ tự tin để tham gia sân chơi toàn cầu, xác lập một vị thế mới, một không gian phá triển mới cho quốc gia dân tộc. Nghị quyết 59 định hình lại chiến lược hội nhập quốc tế, chuyển từ tâm thế của một người "tiếp nhận" đầu tư và viện trợ sang vai trò của một đối tác chủ động, tích cực "đóng góp" và "dẫn dắt", cùng định hình các quy tắc và chuẩn mực của khu vực và thế giới. Điều này hoàn tất một vòng tròn phát triển: nội lực mạnh mẽ cho phép hội nhập chủ động, và hội nhập chủ động lại mang về nguồn lực và cơ hội để tiếp tục củng cố nội lực quốc gia.
Nếu như năm 1945, bản lĩnh trí tuệ của dân tộc được thể hiện qua nghệ thuật chủ động nắm bắt thời cơ, linh hoạt và chớp nhoáng, thì ngày nay, bản lĩnh ấy được thể hiện qua nghệ thuật kiến tạo không gian phát triển và quản trị quốc gia một cách bài bản, có hệ thống và tầm nhìn dài hạn.
"Bộ tứ trụ cột" chính là sự thể chế hóa bản lĩnh trí tuệ đó, tiếp nối tinh thần quyết đoán của Hội nghị Tân Trào năm xưa thành một kế hoạch định hình kiến trúc phát triển quốc gia bền vững theo yêu cầu của thời đại cho thế kỷ XXI. Đó là sự tiếp nối từ nghệ thuật chủ động giành chính quyền kiến tạo một kỷ nguyên độc lập sang nghệ thuật xây dựng một quốc gia hùng cường định hình một kỷ nguyên thịnh vượng của dân tộc hướng tới mốc 100 năm thành lập nước.
"Bộ tứ trụ cột" không chỉ là bốn nghị quyết, mà là một tuyên ngôn về sự tự tin, tự lực, tự cường của một dân tộc đang bước vào "kỷ nguyên vươn mình". Nó thể hiện một quyết tâm chính trị to lớn trong việc thực hiện một cuộc cách mạng toàn diện từ bên trong, lấy cải cách thể chế làm nền tảng, kinh tế tư nhân làm động lực, khoa học công nghệ làm sức bật và hội nhập quốc tế chủ động làm phương thức để vươn ra thế giới.
Tiếng vọng của Cách mạng Tháng Tám không chỉ là niềm tự hào về quá khứ, mà đã trở thành di sản chiến lược, là nguồn sức mạnh tinh thần và trí tuệ để thế hệ hôm nay viết tiếp những trang sử vàng, hiện thực hóa khát vọng về một nước Việt Nam phát triển, thu nhập cao, hùng cường và thịnh vượng vào năm 2045.
Một nền tảng thể chế tốt và khoa học công nghệ mạnh là điều kiện cần, nhưng chưa đủ. Làm sao để giải phóng được nguồn năng lượng nội sinh, biến ý chí của toàn dân tộc thành động lực chính để hiện thực hóa khát vọng Việt Nam hùng cường thịnh vượng?
Đó là câu chuyện về ý chí tự cường và cuộc cách mạng giải phóng nội lực. Kính mời Quý vị tiếp tục theo dõi cuộc đối thoại giữa hai thế kỷ về những giá trị trường tồn của Cách mạng tháng Tám trong bài tiếp theo – cuộc đối thoại của ý chí tự cường và chiến lược giải phóng nội lực của toàn dân tộc.
Bài viết: Hoàng Minh
Thiết kế: Thanh Nga