Mùa cho đi
Có những câu chuyện rất đẹp, ấm áp và lặng lẽ về những con người giữa mùa bão lũ, khi thiên tai quật ngã tất cả, nhưng lại không thể quật ngã được tình thương và sự đùm bọc của đồng bào mình.
Tôi hay gọi mùa bão là mùa cho đi. Là mùa mà người ta có thể mất mát tài sản, nhà cửa, thậm chí cả tính mạng khi lũ tràn về… nhưng cũng là mùa mà tình thương và sự đùm bọc lại sáng hơn bất cứ ngọn đèn nào.
Thông tin về thiên tai phủ kín khắp báo đài. Lời kêu cứu, những chuyến xe chở nhu yếu phẩm nối đuôi nhau, và cả những giọt nước mắt… Ở khắp nơi, người dân góp sức người, sức của. Từng phần ăn, từng bộ quần áo, chiếc đèn pin, bao gạo… cứ thế được chuyển gấp ra những nơi đang bị bão lũ quét qua.
Tài khoản quyên góp cũng báo số dư mỗi phút - những số tiền lớn nhỏ khác nhau, nhưng đều mang chung một lời nguyện: mong cho bà con vùng lũ bình an.
Tôi đã nghĩ về tiền gần như suốt ba mươi năm tuổi trẻ - hay đúng hơn là nghĩ về giá trị của tiền. Những đồng tiền chắt chiu từ mồ hôi cha mẹ, từ những ca làm đêm mệt nhoài, hay từ chính những khoản cứu trợ ấm áp ngày nào tôi từng được nhận.
Tiền - dù cũ hay mới, nhiều hay ít - cũng không làm mất đi ý nghĩa tốt đẹp của nó. Điều quan trọng là nó được làm ra như thế nào, và được dùng vào đâu.
Và trong những lúc cha mẹ già cần thuốc thang, hay nhân dân vùng lũ cần từng gói mì, từng cái áo mưa… tiền trở thành một cách để ta giúp đỡ những người mình thương.
Người ta hay hỏi: “Tiền nhiều để làm gì?”. Với tôi, chính là để có khả năng giúp gia đình, giúp đồng bào khi họ đang ở lằn ranh nguy cấp.
Miền Trung quê tôi, năm nào cũng oằn mình trong bão lũ. Gió lốc thổi bay mái nhà, lũ cuốn sạch gà lợn, hoa màu. Có nhà vừa tậu được chiếc xe máy, xong cơn lũ là trắng tay. Bọn trẻ đứng ngơ ngác nhìn ngôi trường bùn phủ cao hơn bốn mét. Có người lội bì bõm qua bùn cả mấy tiếng đồng hồ để xin hàng hỗ trợ, đến bộ quần áo mặc trên người cũng là từ đoàn thiện nguyện trao tặng. Không phải người miền Trung không chịu khó làm ăn, mà bởi thiên tai cứ đặt họ trở lại điểm xuất phát, hết năm này sang năm khác.
Nhưng cũng nhờ vô vàn trái tim ở khắp mọi miền gửi về, người dân quê tôi lại có thể bắt đầu lại cuộc sống. Những mái nhà được dựng lên, những luống rau xanh lại được gieo xuống, bọn trẻ đến trường khi tường vách được sửa sang. Tiếng cười lại vang lên sau những ngày bùn ngập. Tất cả đều được xây bằng sự sẻ chia của biết bao người xa lạ. Và chúng tôi ghi nhớ điều đó bằng cả tấm lòng.
Rồi đến khi nơi khác oằn mình trong mưa lũ, chúng tôi lại nổi lửa xuyên đêm. Từng chiếc bánh tét, bánh chưng - vốn để dành cho Tết - được gói vội, gửi đi kèm với lời nguyện cầu bình yên. Những thứ nhỏ bé: thùng nước lọc, ổ bánh mì, vài chiếc áo phao, chiếc đèn pin… gom góp từ mỗi nhà, mang ra sân ủy ban để kịp theo chân các đoàn thiện nguyện. Nếu quy đổi ra tiền, chúng chẳng đáng bao nhiêu. Nhưng quy đổi ra tình thương, thì đó là vô giá.
Trong cơn mưa, tôi nghe vài tiếng thở dài. Mẹ tôi - người vừa trải qua một ca phẫu thuật thất bại, suốt mười mấy năm nay chỉ ở nhà, gom góp từng đồng vào thuốc men - vẫn hỏi tôi bằng một giọng đầy hy vọng: “Mình còn gì đó để cho đi không con?”.
Tôi gật đầu. Bởi lúc nào ta cũng có một điều gì đó để trao đi. Khoản tiền trợ cấp thờ cúng liệt sĩ mà mẹ con tôi được nhận mỗi năm - chúng tôi quyết định gửi cho bà con vùng bão. Mẹ bảo: “Ngày còn sống, ông ngoại hy sinh vì đất nước. Khi mất rồi, ông vẫn có thể giúp những người khác trong cơn nguy cấp”. Và tôi hiểu… trong sâu thẳm của sự sẻ chia, có những ngọn lửa không bao giờ tắt.
Mỗi mùa bão về là thêm một mùa cho đi. Để thấy rằng dù nghèo khó đến đâu, người Việt mình vẫn chưa bao giờ nghèo tình thương.
Trúc Nguyễn














