

Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu - Chuyên gia Kinh tế: Nghị định 24 đã tạo ra một thị trường mà cung cầu không khớp nhau. Nhà nước có độc quyền sản xuất vàng miếng, cho SJC thương hiệu vàng miếng quốc gia và từ đó tạo ra một sự lệch lạc trên thị trường vàng. Nguồn cung lại hạn chế. Trên thị trường thế giới, địa chính trị là một vấn đề đang tạo ra những lực đẩy khiến giá vàng tăng cao, với những khủng hoảng tại Ukraine, khủng hoảng tại Trung Đông và tình hình kinh tế tại Mỹ.
Tại Mỹ, giá vàng bị đẩy lên vì chỉ số US Dollar Index đã xuống thấp, hiện tại xuống còn 96%, năm ngoái có lúc lên tới 110%. Bên cạnh đó tất cả những tin tức về lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp tăng và tất cả những vấn đề về thuế quan của Mỹ đã tạo ra một khủng hoảng về kinh tế không những cho nước Mỹ mà toàn cầu.
Trong tình trạng đó, các nhà đầu tư trên thế giới đổ tiền vào vàng, xem vàng như là nơi trú ẩn an toàn. Không chỉ các nhà đầu tư trên thế giới mà ngay cả các ngân hàng Trung ương trên thế giới cũng đang gom vàng rất mạnh mẽ. Trong đó có Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, Ngân hàng Trung ương của Ấn Độ và một số các nước khác.
Phóng sự: Vàng miếng SJC liên tục lập các kỷ lục mới về giá
Tất cả những yếu tố từ thị trường nội địa cho đến thị trường quốc tế đã đẩy giá vàng lên. Trên thế giới đã có lúc lên đến trên 3700 đô la/ounce. Giá vàng trong nước đã có lúc lên đến 135,8 triệu đồng. Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định 232 về vàng. Giá vàng đã giảm xuống còn 132 triệu đồng.Thị trường vàng đang biến động, nhưng sau khi có Nghị định 232 thì cơn sốt vàng đang hạ nhiệt tại Việt Nam.
Tiến sĩ Vũ Đình Ánh - Chuyên gia Kinh tế: Khi nguồn cung hạn chế, nhỏ giọt và không đáp ứng, trong khi đó nhu cầu ngày càng đột biến. Và ở thị trường Việt Nam chúng ta lại lặp lại một kịch bản rất ít thấy trong khoảng 10 năm trở lại đây, kể từ khi ban hành Nghị định 24 về vàng. Đó là việc người ta xếp hàng để mua vàng.
Có nhiều nội dung trong đó kể cả vấn đề về độc quyền vàng miếng SJC trong bối cảnh nước ta có tới 8 thương hiệu vàng miếng khác nhau. Nhưng thị trường thì luôn luôn biến động do các yếu tố quốc tế cũng như do các yếu tố nội tại của chúng ta. Sang đến Nghị định 232, chúng ta mong muốn rằng sẽ bỏ độc quyền vàng miếng và hy vọng thông qua đó sẽ hạ nhiệt được cơn sốt giá vàng.

Điều quan trọng nhất mà khiến cho cơn sốt vàng hay những đoàn người rồng rắn giao dịch vàng tại các cửa hàng vàng, là liên quan tới mất cân đối cung cầu, chứ không liên quan đến câu chuyện là độc quyền hay không độc quyền. Khi Nghị định 24 giao độc quyền về vàng miếng cho công ty SJC thì chúng ta đã không làm tốt vai trò độc quyền này.

Chúng ta hạn chế việc nhập khẩu vàng nguyên liệu để nhập vàng miếng và tạo ra sự mất cân đối cung cầu rất là lớn. Và gần đây nhất, do việc quản lý và giám sát chưa chặt chẽ dẫn đến một số lãnh đạo của SJC đã tự ý sản xuất hàng nghìn lượng vàng miếng mà không được quyền cấp phép của cơ quan quản lý nhà nước. Để xử lý được kể cả về mặt chính sách cũng như quản lý thị trường cần quan tâm đến nguyên nhân cốt lõi để giải quyết được vấn đề nguồn cung không hoàn toàn gắn với vấn đề độc quyền hay không độc quyền.
SJC thông tin về chất lượng 6.255 lượng vàng miếng trái quy định
Bên cạnh đó Việt Nam không tự sản xuất, cung cấp được vàng. Gần như toàn bộ vàng nguyên liệu đều được nhập khẩu, kể cả để phục vụ cho sản xuất vàng miếng hay để cho phục vụ cho sản xuất vàng trang sức.
Trong thời gian vừa qua, đồng đô la Mỹ so với đồng Việt Nam đã tăng khoảng 4 - 5%. Trong khi chỉ số US Dollar Index lại giảm, tức là đồng đô la giảm so với rất nhiều đồng tiền khác nhưng đối với đồng Việt Nam lại tăng. Riêng yếu tố này đã làm giá vàng ở Việt Nam sẽ cao hơn và tăng nhanh hơn so với giá vàng quốc tế bên cạnh các yếu tố về chính sách và yếu tố về quản lý thị trường.
Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu - Chuyên gia Kinh tế: “Việc người dân mua vàng đem về nhà cất giữ, đã làm mất đi một nguồn lực tài chính cho sản xuất kinh doanh. Nếu chúng ta có tiền đầu tư vào chứng khoán, vào bất động sản, gửi tiền tại ngân hàng thì tiền đó có thể sử dụng cho nền kinh tế, cho sản xuất kinh doanh. Nhưng nếu chúng ta mua vàng, đem vàng về chôn dưới gầm giường, đào vào sân nhà để cất giữ hoặc cất giữ trong tủ két thì đó là một tài sản lãng phí.

Cơn sốt vàng đó đã lấy đi một nguồn lực tài chính cho nền kinh tế, phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Điều thứ hai là việc giá vàng tăng có thể tạo ra một tâm lý lạm phát. Thấy giá vàng tăng, cảm thấy lạm phát đang tăng lên, nhưng thực tế chúng ta kiểm soát lạm phát rất tốt theo những báo cáo của Cục Thống kê Quốc gia. Nó tạo ra một tâm lý FOMO (Fear of missing out) tức là nếu bây giờ tôi không mua vàng tôi sẽ bỏ lỡ một cơ hội và cứ thế người người chạy đến các tiệm vàng, xếp hàng dài để mua vàng với mong muốn là kiếm tiền, kiếm lợi nhuận.
Vàng đã lấy đi một nguồn ngoại tệ khá lớn để phục vụ cho nền kinh tế. Theo thông tin từ Hội đồng Vàng, Việt Nam sử dụng, tiêu thụ 50 tấn vàng trong năm 2024, là một quốc gia tiêu thụ số vàng lớn nhất Đông Nam Á. Và trong 8 tháng đầu năm 2025, trung bình 3 tháng nhập khẩu khoảng 110 tỷ đô la. Trong khi dự trữ ngoại tệ của chúng ta chỉ có 80 tỷ đô la, rất mỏng so với 3 tháng nhập khẩu. Giá vàng tăng lên sẽ xuất hiện hiện tượng buôn lậu vàng, sử dụng một số những tiền ngoại tệ lớn để đáp ứng nhu cầu vàng. Đến cuối cùng nó sẽ ảnh hưởng tới tất cả những cân đối vĩ mô, ảnh hưởng tới lạm phát và sản xuất kinh doanh.


Phóng sự: Nghị định 232: Xóa độc quyền vàng miếng, cho phép nhập khẩu vàng
Tiến sĩ Vũ Đình Ánh - Chuyên gia Kinh tế: Để đảm bảo nguồn cung, thay vì chỉ cho SJC nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng và độc quyền một loại vàng miếng SJC như trước nay, thì chúng ta cho phép là thêm những doanh nghiệp khác cũng có thể nhập khẩu và sản xuất ra loại vàng miếng của mình để tạo ra một nguồn cung dồi dào hơn.
Và trong Nghị định 232, các nội dung cũng kỳ vọng rằng giá vàng, trước mắt là vàng miếng được xác lập trên thị trường trong nước sẽ tạo ra từ cơ chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp được phép nhập khẩu và sản xuất vàng miếng.
Tôi cho rằng nội dung của Nghị định 232 về cơ bản là phù hợp với các nguyên tắc thị trường, phù hợp áp dụng cho thị trường vàng của chúng ta trong thời gian tới để giảm sự độc quyền và phát huy tốt hơn vai trò của cơ chế cạnh tranh.

Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu - Chuyên gia Kinh tế: “Tôi tin là việc cho phép nhập khẩu vàng nguyên liệu có giúp thu hẹp khoảng cách giá vàng trong nước và thế giới như kỳ vọng. Nếu nguyên nhân của biến động thị trường vàng là do nguồn cung quá hạn chế, trong khi sức mua thì ngày càng cao. Nếu có một nguồn cung dồi dào hơn để đáp ứng thì chắc chắn sẽ giúp ổn định thị trường.
Trong sự ổn định thị trường có thể giá vàng sẽ giảm và nếu giá vàng giảm thì khoảng cách giữa giá vàng trong nước và thế giới trước đây có lúc lên đến 20 triệu đồng, có thể sẽ giảm xuống mức hợp lý là từ 3 đến 5 triệu đồng. Tôi nghĩ đó là một trong những lý do, mục đích của Nghị định 232.

Và nếu đảm bảo được cân đối cung cầu, phải hướng tới việc nhập khẩu vàng nguyên liệu. Có thể là không phải con số 50 tấn hàng năm giống trước đây, mà phải nhiều hơn để bù đắp cho phần nguồn cung đang bị thiếu hụt so với nguồn cầu đang tăng lên. Về vấn đề cạnh tranh để xác lập giá trên thị trường thì cần thu hẹp khoảng cách giữa giá vàng trong nước với giá vàng thế giới. Và nếu muốn như vậy thì chúng ta cứ nhập khẩu thật nhiều vàng.
Tuy nhiên, một vấn đề rất lớn nữa đó là thị trường vàng trong nước. Bản chất của Nghị định 24 là tách thị trường vàng trong nước ra khỏi thị trường vàng thế giới. Thị trường vàng thế giới tại thời điểm ra ban hành Nghị định 24 biến động rất khủng khiếp và điều này phản ánh cả trong thị trường Việt Nam. Mỗi một biến động trên thị trường thế giới khi vào đến thị trường Việt Nam thậm chí bị khuếch đại lên. Vì vậy, việc ban hành Nghị định 24 cũng để giữ được quyền không để cho biến động của thị trường thế giới phản ánh một cách khuếch đại vào thị trường Việt Nam.
Vấn đề quan trọng nữa là ai đang là người làm giá vàng trên thị trường Việt Nam? Ai là nhà nhập khẩu vàng, nhà sản xuất cung cấp vàng miếng?
Để triển khai nghị định 232, quan trọng nhất là phải đối mặt với những người, những tổ chức tham gia trên thị trường vàng bên cạnh mục tiêu thu hẹp khoảng cách giá vàng trong nước với giá vàng thế giới.

Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu - Chuyên gia Kinh tế: Sau 10/10, hy vọng một số những vấn đề sau đây sẽ được giải quyết:
Thứ nhất là cung cầu trên thị trường vàng có thể sẽ được quân bình khi mà một số ngân hàng thương mại được phép nhập khẩu vàng và sản xuất vàng. Khi một số những nhà kinh doanh vàng đáp ứng những điều kiện của Nghị định 232 cũng được phép nhập khẩu vàng và xuất khẩu vàng, cung cầu được quân bình.
Điều thứ hai là chúng ta phải chấp nhận bỏ ra một số ngoại tệ để nhập khẩu vàng.
Điều thứ ba tôi nghĩ là phải lập được sàn vàng. Tại vì chúng ta hiện tại vẫn theo giao dịch truyền thống là người dân đi mua vàng, đem vàng về nhà giữ ở trong tủ sắt rồi chôn ở dưới gầm giường. Tất cả những điều đó nó làm lãng phí một nguồn lực tài chính rất quan trọng cho quốc gia. Thay vào đó sẽ có những nhà kinh doanh vàng, có thể mua vàng và nhận được một chứng chỉ vàng. Chứng chỉ vàng đó có thể được giao dịch trên một sàn vàng quốc gia. Và chính vì thế tôi nghĩ rằng việc thành lập một sàn vàng quốc gia là rất quan trọng.
Để thị trường vàng ổn định phải có sự liên thông giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Các nhà nhập khẩu vàng có thể mở tài khoản với các trung tâm vàng thế giới, các nhà cung cấp vàng thế giới và giao dịch trên thị trường vàng quốc tế, liên thông giữa vàng trong nước và vàng quốc tế. Một điều chúng Hiện tại có hàng trăm tấn vàng đang nằm trong người dân. Làm sao để chúng ta kéo được những số vàng đó đi vào nền kinh tế, có thể giao cho Ngân hàng Nhà nước. Bộ Tài chính, dùng số vàng đó để đi vay mượn thế giới và cho sản xuất kinh doanh. Ngân hàng Nhà nước có thể xem xét việc huy động số vàng đó bằng cách là phát hành một chứng chỉ vàng dưới danh nghĩa của Ngân hàng Nhà nước.
Và đến cuối cùng phải tính đến vấn đề đánh thuế vàng. Không nên đánh thuế trên giao dịch. Vì rất nhiều người dân mua vàng bằng tiền mà họ đã chịu thuế. nếu người mua vàng lại phải đánh thuế trên giao dịch vàng nữa thì sẽ là thuế chồng thuế.
Tôi đề nghị nếu đánh thuế vàng thì đánh thuế trên lợi nhuận khi mà người dân giao dịch vàng. Tức là họ mua vàng vào không đánh thuế, nhưng mà khi họ bán ra và chênh lệch giữa giá bán và giá mua, lợi nhuận đó là lợi nhuận phải chịu thuế. Nếu chúng ta áp dụng tất cả những điều đó tôi nghĩ là nó sẽ tạo ra sự ổn định trên thị trường vàng.

Tiến sĩ Vũ Đình Ánh - Chuyên gia Kinh tế: Không ít ngân hàng Trung ương hiện nay đang mua vàng ồ ạt với quy mô rất lớn để làm thay đổi dự trữ ngoại hối của họ, tránh phụ thuộc vào một đồng ngoại tệ nào đó, đặc biệt vì các mục tiêu khác nhau. Và trong dài hạn, chúng ta luôn luôn phải cân nhắc vấn đề này - vai trò của vàng trong nền kinh tế của Việt Nam.
Vấn đề thứ hai, chính sách chúng ta ban hành ra thì đều phải dựa trên người dân Việt Nam đang quan niệm thế nào về vàng, đang ứng xử thế nào vào vàng, họ đang đầu tư hay đầu cơ hay đang làm gì với vàng,, hay vàng chỉ là một phần tích trữ để tránh những rủi ro.
Thứ ba, vàng là một phần của dạng thị trường tài chính, thị trường đầu tư tài chính. Và như vậy nếu như vàng là một công cụ tài chính thì mối liên hệ của nó với các thị trường khác sẽ như thế nào? Cần phải xử lý, phải giải quyết. Nhưng cho đến nay chúng ta không làm bởi vì có khá nhiều lý do. Lý do liên quan đến khả năng quản lý, liên quan đến niềm tin của của người dân Việt Nam, của doanh nghiệp Việt Nam.
Một trong những tâm lý quan trọng nhất tại sao người dân Việt Nam vẫn cứ mua vàng mà thậm chí tích trữ từng phân từng chỉ vàng, đó là vì nó cầm được, sờ được và cất kỹ được, khó xâm phạm được đến giá trị của nó.
Thực hiện: Trần Nam
Thiết kế: Khánh Linh - Hoàng Quyên